Công ty của bà Nguyễn Thị Nga (Hà Nội) tổ chức quản lý bãi trông giữ xe theo hình thức ghi, xé vé cho khách hàng và báo cáo doanh thu dựa trên cuống vé. Hiện nay, Công ty có kế hoạch sử dụng thẻ từ để kiểm soát khách ra-vào, in hóa đơn tính tiền bằng máy in hóa đơn đặt tại cửa ra của bãi trông giữ xe.
Doanh thu trông giữ xe sẽ được sao kê trên bảng kê số lượng xe gửi và tổng tiền thu hàng tháng kết xuất từ máy in hóa đơn tại bãi trông giữ xe.
Từ ngày 7/2/2014, công ty của bà Nga đã gửi công văn lên Chi cục thuế về việc này nhưng đến nay vẫn chưa nhận được văn bản trả lời. Bà Nga đề nghị cơ quan chức năng xem xét, hướng dẫn việc sử dụng hóa đơn tự in trong trường hợp của công ty bà.
Cục thuế TP. Hà Nội trả lời vấn đề này như sau:
Căn cứ Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ:
Tại điểm c, khoản 2 và điểm a, khoản 3, Điều 3 quy định về loại và hình thức hóa đơn như sau:
“c) Hóa đơn khác gồm: tem; vé; thẻ; phiếu thu tiền bảo hiểm…”.
“a) Hóa đơn tự in là hóa đơn do các tổ chức kinh doanh tự in ra trên các thiết bị tin học, máy tính tiền hoặc các loại máy khác khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ”.
Căn cứ Điều 3 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng và quản lý thuế tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế; sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ:
“Điều 3. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2014 và Nghị định số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/1/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ như sau:
… 2. Sửa đổi gạch đầu dòng cuối điểm b, khoản 1, Điều 6 như sau:
– Có văn bản đề nghị sử dụng hóa đơn tự in (Mẫu số 3.14 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này) và được cơ quan thuế quản lý trực tiếp xác nhận đủ điều kiện. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan thuế quản lý trực tiếp phải có ý kiến về điều kiện sử dụng hóa đơn tự in của doanh nghiệp (Mẫu số 3.15 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này).
Trường hợp sau 5 ngày làm việc cơ quan quản lý thuế trực tiếp không có ý kiến bằng văn bản thì doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn tự in. Thủ trưởng cơ quan thuế phải chịu trách nhiệm về việc không có ý kiến bằng văn bản trả lời doanh nghiệp”.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp công ty của bà Nguyễn Thị Nga nhận thấy đáp ứng đủ điều kiện tạo hóa đơn tự in thì cần có văn bản đề nghị sử dụng hóa đơn tự in (Mẫu 3.14 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư số 39/2014/TT-BTC) gửi cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp.
Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ khi nhận được văn bản đề nghị của doanh nghiệp, cơ quan thuế quản lý trực tiếp phải có ý kiến về điều kiện sử dụng hóa đơn tự in của doanh nghiệp (Mẫu số 3.15 Phụ lục 3 ban hành kèm theo Thông tư này).
Trường hợp sau 5 ngày làm việc cơ quan quản lý thuế trực tiếp không có ý kiến bằng văn bản thì doanh nghiệp được sử dụng hóa đơn tự in. Thủ trưởng cơ quan thuế phải chịu trách nhiệm về việc không có ý kiến bằng văn bản trả lời doanh nghiệp.